- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 7b
- (V) (45) TƯỞNG (1)
1. - Có bảy tưởng này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể
nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Thế nào là bảy?
2. Tưởng bất tịnh, tưởng chết,
tưởng nhàm chán đối với các món ăn, tưởng không hoan hỷ đối với tất
cả thế giới, tưởng vô thường, tưởng khổ trong vô thường, tưởng vô
ngã trong khổ.
Bảy tưởng này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể
nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh.
(VI) (46) TƯỞNG (2)
1. - Có bảy tưởng này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể
nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Thế nào là bảy?
2. Tưởng bất tịnh, tưởng chết,
tưởng nhàm chán đối với các món ăn, tưởng không hoan hỷ đối với tất
cả thế giới, tưởng vô thường, tưởng khổ trong vô thường, tưởng vô
ngã trong khổ.
3. Tưởng bất tịnh, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể
nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy.
Do duyên gì được nói đến như vậy?
4. Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo
sống nhiều với các tưởng bất tịnh, thời tâm thối lui, tâm trở lưng,
quay lưng để không đắm vào các dâm dục; do đó tâm vị ấy không căng
thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán. Ví như, này các Tỷ-kheo, lông gà
hay là dây gân quăng vào lửa thời thối lui, trở lưng, quay lưng, và không
căng thẳng; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo sống nhiều với
các tưởng bất tịnh, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không
đắm vào các dâm dục; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi
lên nhàm chán.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống
nhiều với các tưởng bất tịnh, nhưng tâm lại chảy theo, đắm vào dâm
dục, không khởi lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
"Tưởng bất tịnh không được ta tu tập ; ở nơi ta không có sự sai
khác trước và sau. Ta không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị
ấy tỉnh giác như vậy. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với
các tưởng bất tịnh, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không
đắm vào các dâm dục; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi
lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: " Tưởng bất
tịnh không được ta tu tập ; ở nơi ta không có sự sai khác trước và
sau. Ta không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như
vậy. Tưởng bất tịnh, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho
sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất
tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến
như vậy.
5. Tưởng chết, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn,
được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến như vậy?
6. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống
nhiều với tưởng chết, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng không
thích thú sự sống, do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi
lên nhàm chán, thời... (như số 4 ở trên, chỉ khác trước là tưởng bất
tịnh, đây là tưởng chết, với sự thay đổi cần thiết)... Do duyên gì
được nói đến như vậy.
7. Tưởng nhàm chán đối với món
ăn, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn,
có lợi ích lớn, như vậy được nói đến. Do duyên gì được nói đến
như vậy?
8. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống
nhiều với các tưởng đối với các món ăn, thời tâm thối lui... không
tham ái các vị; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên
nhàm chán, thời... (như số 4 ở trên, chỉ khác đây là tưởng nhàm chán
đối với các món ăn)... Do duyên gì được nói đến như vậy.
9. Tưởng không hoan hỷ đối với
các thế giới, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn,
có quả lớn, có lợi ích lớn, như vậy được nói đến. Do duyên gì được
nói đến như vậy?
10. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống
nhiều với tâm không hoan hỷ đối với các thế giới, thời tâm thối
lui, tâm trở lưng, quay lưng các lòe loẹt của thế giới; do đó tâm vị
ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán, thời... (như số 4
ở trên, chỉ khác đây là tâm không hoan hỷ đối với các thế giới và
những thay đổi cần thiết)... Do duyên gì được nói đến như vậy.
11. Tưởng vô thường, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, như
vậy được nói đến. Do duyên gì được nói đến như vậy?
12. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống
nhiều với tưởng vô thường, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng
với các lợi dưỡng, cung kính danh vọng; do đó tâm vị ấy không căng thẳng,
thanh thản, khởi lên nhàm chán, thời... (như số 4 ở trên, chỉ khác đây
là tưởng vô thường với những thay đổi cần thiết)...
13. Tưởng khổ trên vô thường, này
các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi
ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói
đến như vậy. Do duyên gì được nói đến như vậy?
14. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống
nhiều với các tưởng khổ trên vô thường, thời các tưởng sợ hãi sắc
bén được an lập trên thụ động, biếng nhác, thả lỏng, phóng dật,
không chú tâm, không quán sát; ví như một kẻ giết người giơ đao lên.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng khổ trên vô thường,
nhưng các tưởng sợ hãi sắc bén không được an lập trên thụ động, biếng
nhác, thả lỏng, phóng dật, không chú tâm, không quán sát; thời giống như
một kẻ giết người giơ đao lên. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải
hiểu rằng: "Tưởng khổ trên vô thường không được ta tu tập; ở
nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả của
sự tu tập." Ở đây, vị ấy tỉnh giác như vậy. Nhưng này các Tỷ-kheo,
nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng khổ trên vô thường, thời các
tưởng sợ hãi sắc bén an lập trên thụ động, biếng nhác, thả lỏng,
phóng dật, không chú tâm, không quán sát, ví như một kẻ giết người
giơ đao lên. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải hiểu rằng: "Tưởng
khổ trên vô thường không được ta tu tập; ở nơi ta không có sự sai
khác trước và sau. Ta không đạt được quả của sự tu tập." Ở đây,
vị ấy tỉnh giác như vậy. Tưởng khổ trên vô thường, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể
nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy.
Do duyên gì được nói đến như vậy.
15. Tưởng vô ngã trên khổ, này
các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi
ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm mục đích, được nói
đến như vậy. Do duyên gì được nói đến như vậy?
16. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống
nhiều với các tưởng vô ngã trên khổ, này các Tỷ-kheo, ý của vị ấy
thoát khỏi các tư tưởng ngã, ngã sở, ngã mạn, đối với cái thân có
thức nầy và đối với tất cả tướng ở ngoài, khéo giải thoát, được
an tịnh, vượt qua các thiên kiến. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều
với tâm chất chứa tưởng vô ngã trên khổ, này các Tỷ-kheo, ý của vị
ấy không thoát khỏi các tư tưởng ngã, ngã sở, ngã mạn, đối với cái
thân có thức nầy và đối với tất cả tướng ở ngoài, khéo giải
thoát, được an tịnh, vượt qua các thiên kiến. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng vô ngã trên khổ không được ta tu
tập; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được
quả của sự tu tập." Ở đây, vị ấy tỉnh giác như vậy. Nhưng này
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng vô ngã trên khổ, này
các Tỷ-kheo, ý của vị ấy thoát khỏi các tư tưởng ngã, ngã sở, ngã mạn
đối với cái thân có thức và đối với tất cả tướng ở ngoài, khéo
giải thoát, được an tịnh, vượt qua các thiên kiến. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng vô ngã trên khổ không được ta tu
tập; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được
quả của sự tu tập." Ở đây, vị ấy tỉnh giác như vậy. Tưởng vô
ngã trên khổ, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có
quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu
cánh, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến như vậy.
Bảy tưởng này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể
nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh.
(VII) (47) DÂM DỤC
1. Bấy giờ có Bà-la-môn Jànussoni
đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón
hỏi thăm... Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama, Tôn giả có
tự xem mình là sống Phạm hạnh không?
- Này Bà-la-môn, ai nói một cách chơn
chánh phải nói như sau: "Vị ấy sống Phạm hạnh, không có bể vụn,
không có khuyết điểm, không có nhiễm ô, không bị điểm chấm, viên
mãn, thanh tịnh". Này Bà-la-môn, nếu nói về Ta một cách chơn chánh,
thời phải nói như vậy: "Ta sống Phạm hạnh, không có bể vụn,
không có khuyết phạm, không có nhiễm ô, không bị điểm chấm, viên mãn,
thanh tịnh".
- Thưa Tôn giả Gotama, Phạm hạnh
như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, là bị bể vụn, bị khuyết phạm, bị
ô nhiễm, bị điểm chấm?
2. - Ở đây, này Bà-la-môn, có
Sa-môn hay Bà-la-môn, tự xem mình sống Phạm hạnh một cách chơn chánh, tuy
không có hành dâm với nữ nhân, nhưng hưởng thụ được nữ nhân thoa,
bóp, tắm, xức dầu. Vị ấy thích thú, ước muốn, bị kích thích bởi nữ
nhân. Này Bà-la-môn, đây gọi là Phạm hạnh bị bể vụn, bị khuyết phạm,
bị nhiễm ô, bị điểm chấm. Này Bà-la-môn, đây gọi là hành Phạm hạnh
không thanh tịnh, bị liên hệ, bị hệ lụy với dâm dục, không giải
thoát khỏi sanh, già, chết, sầu bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng không thoát
khỏi khổ.
3. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây
có Sa-môn hay Bà-la-môn, tự xem mình sống Phạm hạnh một cách chơn chánh,
tuy không có hành dâm với nữ nhân, nhưng hưởng thụ được nữ nhân
thoa, bóp, tắm, xức dầu, nhưng cười giỡn, chơi đùa, vui chơi với nữ
nhân... tuy không cười giỡn, chơi đùa, vui chơi với nữ nhân, nhưng lấy
mắt nhìn mắt, trừng mắt nhìn theo nữ nhân... tuy không lấy mắt nhìn mắt,
trừng mắt nhìn theo nữ nhân, nhưng nghe tiếng của nữ nhân, tiếng cười,
tiếng nói, tiếng hát, tiếng khóc ngang qua vách, ngang qua hàng rào... tuy
không nghe tiếng của nữ nhân, tiếng cười, tiếng nói, tiếng hát, tiếng
khóc ngang qua vách, ngang qua hàng rào, nhưng nhớ đến tiếng cười, tiếng
nói, tiếng đùa giỡn trước kia đã có với nữ nhân... tuy không nhớ đến
tiếng cười, tiếng nói, tiếng đùa giỡn trước kia đã có với nữ
nhân, nhưng xem gia chủ hay con gia chủ thọ hưởng, thưởng thức thích thú
trong năm dục công đức... tuy không xem gia chủ hay con gia chủ thọ hưởng,
thưởng thức thích thú trong năm dục công đức, nhưng sống Phạm hạnh với
tâm nguyện hướng đến một thân chư Thiên, nguyện rằng: "Với giới
này hay với giới cấm này, hay với khổ hạnh này, hay với Phạm hạnh
này, ta sẽ thành một Thiên nhân này hay một Thiên nhân khác". Vị ấy
thích thú, ước muốn, bị kích thích bởi nữ nhân. Này Bà-la-môn, đấy gọi
là Phạm hạnh bị bể vụn, bị khuyết phạm, bị nhiễm ô, bị điểm chấm.
Này Bà-la-môn, đấy gọi là hành Phạm hạnh không thanh tịnh, bị liên hệ,
bị hệ lụy với dâm dục, không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu
bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng không giải thoát khỏi khổ.
Cho đến khi nào, này Bà-la-môn, Ta
còn tiếp tục thấy một hay một trong bảy hệ lụy đến dâm dục này chưa
được đoạn tận ở nơi Ta, cho đến khi ấy, này Bà-la-môn, Ta không có
xác chứng rằng, Ta đã chứng ngộ Vô thượng Chánh Đẳng Giác trong thế
giới chư Thiên với Ma giới, Phạm thiên giới, trong quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Và cho đến khi nào, này Bà-la-môn, Ta
tiếp tục không còn thấy một hay một trong bảy hệ lụy đến dâm dục
này chưa được đoạn tận ở nơi Ta, cho đến khi ấy, này Bà-la-môn, Ta
không có xác chứng rằng, Ta đã chứng ngộ Vô thượng Chánh Đẳng Giác
trong thế giới chư Thiên với Ma giới, Phạm thiên giới, trong quần chúng
Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Tru và kiến được khởi lên
nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta. Đây là đời sống cuối
cùng. Nay không còn tái sanh nữa".
Được nói như vậy, Bà-la-môn
Jànussoni bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn!... Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ này cho đến mạng
chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(VIII) (48) HỆ LỤY
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
cho các Thầy pháp môn về hệ lụy, và ly hệ lụy, hãy lắng nghe... Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp môn về hệ lụy và ly hệ lụy?
2. Một nữ nhân, này các Tỷ-kheo,
tác ý nội nữ căn, nữ hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục, nữ thanh, nữ
trang sức, thời nữ nhân ấy tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy. Do
tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy nên tác ý đến nam căn ở ngoài,
nam hành, nam y phục, nam loại, nam dục, nam thanh, nam trang sức mà nữ nhân
ấy tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy. Do tham đắm trong ấy, thích
thú tại đấy nên nữ nhân ấy ước muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do
duyên với hệ lụy ấy, khởi lên lạc, hỷ nên nữ nhân ấy ước muốn lạc
hỷ ấy. Này các Tỷ-kheo, do thích thú trong nữ tánh của mình, các loài hữu
tình đi đến hệ lụy với những người đàn ông. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
nữ nhân không có thoát được nữ tánh của mình.
3. Một nam nhân, này các Tỷ-kheo,
tác ý nội nam căn, nam hành, nam y phục, nam loại, nam dục, nam thanh, nam
trang sức mà nữ nhân ấy tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy. Do tham
đắm trong ấy, thích thú tại đấy nên tác ý đến nữ căn ở ngoài, nữ
hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục, nữ thanh, nữ trang sức mà nam nhân
ấy tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy. Do tham đắm trong ấy, thích
thú tại đấy nên nam nhân ấy ước muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do
duyên với hệ lụy ấy, khởi lên lạc hỷ nên nam nhân ấy ước muốn lạc
hỷ ấy. Này các Tỷ-kheo, do thích thú trong nam tánh của mình, các loài hữu
tình đi đến hệ lụy với những người đàn bà. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
nam nhân không thoát khỏi nam tánh của mình. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
hệ lụy. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là không hệ lụy?
4. Một nữ nhân, này các Tỷ-kheo,
không tác ý nội nữ căn, nữ hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục, nữ
thanh, nữ trang sức thời nữ nhân ấy không tham đắm trong ấy, không
thích thú tại đấy. Do không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy
nên không tác ý đến nam căn ở ngoài, nam hành, nam y phục, nam loại, nam dục,
nam thanh, nam trang sức mà nữ nhân ấy không tham đắm trong ấy, không
thích thú tại đấy. Do không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy
nữ nhân ấy không muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do duyên hệ lụy ấy,
khởi lên lạc, hỷ, nữ nhân ấy không ước muốn lạc, hỷ ấy. Này các
Tỷ-kheo, do không thích thú trong nữ tánh của mình, các loài hữu tình
không đi đến hệ lụy với những người đàn ông. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
nữ nhân thoát được nữ tánh của mình.
5. Một nam nhân, này các Tỷ-kheo,
không tác ý đến nội nam căn, nam hành, nam y phục, nam loại, nam dục, nam
thanh, nam trang sức mà nữ nhân ấy không tham đắm trong ấy, không thích
thú tại đấy. Do không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy nên
không tác ý đến nữ căn ở ngoài, nữ hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục,
nữ thanh, nữ trang sức mà nam nhân ấy không tham đắm trong ấy, không
thích thú tại đấy. Do không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy
nên nam nhân ấy không ước muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do duyên với hệ
lụy ấy, khởi lên lạc, hỷ nên nam nhân ấy ước muốn lạc, hỷ ấy. Này
các Tỷ-kheo, do không thích thú trong nam tánh của mình, các loài hữu tình
không đi đến hệ lụy với những nữ nhân. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
nam nhân thoát được nam tánh của mình. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
không hệ lụy.
Này các Tỷ-kheo, đây là pháp môn
hệ lụy và ly hệ lụy.
(IX) (49) BỐ THÍ
1. Một thời, Thế Tôn ở Campà,
trên bờ hồ Gaggara. Bấy giờ có nhiều cư sĩ ở Campà đi đến Tôn giả
Sàriputta, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Sàriputta rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, các nam cư sĩ ấy thưa với Tôn giả Sàriputta:
- Thưa Tôn giả, đã lâu lắm,
chúng con không được nghe pháp thoại từ miệng Thế Tôn. Lành thay, thưa Tôn
giả, nếu nay chúng con được nghe pháp thoại từ miệng Thế Tôn!
- Vậy này chư Hiền, hãy đến
trong ngày lễ Trai giới (uposatha), các Thầy sẽ được nghe pháp thoại từ
miệng Thế Tôn.
- Thưa vâng, thưa Tôn giả!
Các nam cư sĩ ở Campà ấy vâng đáp
Tôn giả Sàriputta, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tôn giả
Sàriputta, thân bên hữu hướng về Tôn giả rồi ra đi. Rồi các nam cư sĩ
ở Campà, đến ngày lễ Trai giới, đi đến Tôn giả Sàriputta, sau khi đến,
đảnh lễ Tôn giả Sàriputta rồi đứng một bên. Rồi Tôn giả Sàriputta
cùng với các nam cư sĩ ở Campà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Sàriputta bạch Thế Tôn:
2. - Có thể, bạch Thế Tôn, ở đây
có hạng người bố thí như vậy, không được quả lớn, không được lợi
ích lớn. Nhưng bạch Thế Tôn, có thể ở đây có hạng người bố thí như
vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn.
- Này Sàriputta, có thể ở đây có
hạng người bố thí như vậy, không được quả lớn, không được lợi
ích lớn. Có thể, này Sàriputta, ở đây có hạng người bố thí như vậy,
được quả lớn, được lợi ích lớn.
3. - Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, ở đây có hạng người bố thí như vậy, không được quả lớn,
không được lợi ích lớn? Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây
có hạng người bố thí như vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn?
- Ở đây, này Sàriputta, có người
bố thí với tâm mong cầu, bố thí với tâm trói buộc (về kết quả), bố
thí với tâm mong cầu được chất chứa, bố thí với ý nghĩ: "Tôi sẽ
hưởng thọ cái này trong đời sau". Vị ấy bố thí như vậy cho các
Sa-môn, Bà-la-môn, bố thí đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa,
hương thơm, hương liệu, giường nằm, những trú xứ, đèn đuốc. Thầy
nghĩ thế nào, này Sàriputta, ở đây có thể có hạng người bố thí như
vậy không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Ở đây, này Sàriputta, có hạng
người bố thí với tâm mong cầu, bố thí với tâm trói buộc, bố thí với
tâm mong cầu được chất chứa, bố thí với ý nghĩ: "Ta sẽ hưởng
thọ cái này trong đời sau". Vị ấy bố thí như vậy, khi thân hoại mạng
chung, được sanh cộng trú với chư Thiện ở Bốn thiên vương. Và vị ấy,
khi nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy
được đoạn tận, vị ấy trở thành "vị trở lui lại", trở lui
trạng thái này.
4. Ở đây, này Sàriputta, có người
bố thí với tâm không mong cầu, bố thí với tâm trói buộc, bố thí với
tâm mong cầu được chất chứa, bố thí với ý nghĩ: "Ta sẽ hưởng
thọ cái này trong đời sau", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Lành thay,
sự bố thí"... bố thí không với ý nghĩ: "Lành thay, sự bố
thí", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Cái này đã được cho trong quá
khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ, ta không nên để truyền thống
gia đình này bị bỏ quên"... Hay là người bố thí không với ý nghĩ:
"Cái này đã được cho trong quá khứ, đã được tổ tiên làm trong
quá khứ, ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên",
nhưng bố thí với ý nghĩ: "Ta nấu ăn, các người này không nấu ăn.
Ta không nên là người nấu ăn, lại không bố thí cho người không nấu
ăn...", bố thí không với ý nghĩ: "Ta nấu ăn, các người này
không nấu ăn. Ta không nên là người nấu ăn, lại không bố thí cho người
không nấu ăn", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Như các vị ẩn sĩ thời
xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta,
Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người
san sẻ các vật bố thí"... Vị ấy bố thí không với ý nghĩ:
"Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka,
Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng
vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố thí này", nhưng bố thí với
ý nghĩ: "Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt
khởi lên"... Vị ấy bố thí, không với ý nghĩ: "Do ta bố thí vật
bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên". nhưng vị ấy
bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm. Và đối với
Sa-môn hay Bà-la-môn, vị ấy bố thí đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ,
vòng hoa, hương thơm, hương liệu, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Thầy
nghĩ thế nào, này Sàriputta, ở đây, có hạng người có thể bố thí như
vậy không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Này Sàriputta , ở đây, ai bố
thí không với tâm cầu mong, bố thí không với tâm trói buộc, bố thí
không với mong cầu được chất chứa, bố thí không với ý nghĩ: "Ta
sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau", bố thí không với ý nghĩ:
"Lành thay, sự bố thí", bố thí không với ý nghĩ: "Cái này
đã được cho trong đời quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ,
ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên", bố thí
không với ý nghĩ: "Ta nấu ăn, các người này không nấu ăn. Ta không
nên là người nấu ăn, lại không bố thí cho người không nấu ăn",
... bố thí không với ý nghĩ: "Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những
tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa,
Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật
bố thí...", bố thí không với ý nghĩ: "Do ta bố thí vật bố thí
này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên". Nhưng vị ấy bố thí
với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm.. Do vị ấy bố thí như
vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở
Phạm chúng thiên. Và khi vị ấy, nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy,
danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất
lai, không trở lui trạng thái này.
Này Sàriputta, đây là nhân, đây
là duyên, khiến cho ở đây, một hạng người bố thí như vậy, không được
quả lớn, không được lợi ích lớn. Này Sàriputta, nhưng đây cũng là
nhân, là duyên khiến cho ở đây, có hạng người bố thí như vậy, được
quả lớn, được lợi ích lớn.
(X) (50) MẸ CỦA NANDA
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Tôn giả Sàriputta và
Tôn giả Mahàmoggallàna đang du hành ở Dakkhinàgiri, cùng với đại chúng Tỷ-kheo.
Lúc bấy giờ, nữ cư sĩ Velukantakì, mẹ của Nanda thức dậy trước khi mặt
trời mọc, và đọc lớn tiếng bài "Pàràyana" (Con đường đưa đến
bờ bên kia). Lúc bấy giờ, Đại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) đang đi từ
phương Bắc đến phương Nam vì một vài công việc. Đại vương Vessavana
nghe nữ cư sĩ Velukantakì, mẹ của Nanda, sau khi lớn tiếng đọc xong bài
Pàràyana, liền đứng lại, chờ đợi cho bài được đọc xong. Và nữ cư
sĩ, mẹ của Nanda, sau khi lớn tiếng đọc xong bài Pàràyana, liền im lặng.
Rồi Đại vương Vessavana biết được nữ cư sĩ, mẹ của Nanda đã đọc
xong bài kệ, liền hết sức hoan hỷ và nói:
- Lành thay, này Chị! Lành thay, này
Chị!
- Ngài là ai, hỏi vị có bộ mặt
hiền?
- Này Chị, ta là anh của Chị, Đại
vương Vessavana!
- Lành thay, hỏi vị có bộ mặt hiền!
Hãy lấy pháp môn được tôi nói đến hôm qua, làm quà tặng đón khách
cho Ngài.
- Lành thay, này Chị! Phải, pháp
môn này hãy là quà tặng đón khách của tôi! Ngày mai, chúng Tỷ-kheo, với
Sàriputta và Moggallàna là các vị cầm đầu, sẽ đến Velukantaka, nhưng
chưa ăn sáng. Sau khi Chị mời chúng Tỷ-kheo dùng xong, hãy tuyên bố chính
ta đã cúng dường.
2. Rồi cư sĩ, mẹ của Nanda, sau
khi đêm ấy đã mãn, liền cho sửa soạn tại nhà của mình các món ăn
thượng vị loại cứng và loại mềm. Rồi chúng Tăng, với Sàriputta và
Moggallàna là vị cầm đầu đi đến Velukantaka nhưng chưa ăn sáng. Rồi nữ
cư sĩ, mẹ của Nanda bảo một người đi, nói rằng:
- Này Bạn, hãy đi đến khu vườn
và báo thời giờ cho chúng Tỷ-kheo: "Đã đến giờ, thưa các Tôn giả!
Tại nhà của mẹ Nanda, các món ăn đã được sửa soạn".
- Thưa vâng, thưa nữ cư sĩ.
Người ấy vâng đáp nữ cư sĩ, mẹ
của Nanda, đi đến khu vườn và báo thời giờ cho chúng Tỷ-kheo:
- Đã đến giờ, thưa các Tôn giả!
Tại nhà của mẹ Nanda, các món ăn đã được sửa soạn.
Rồi chúng Tỷ-kheo, với Sàriputta
mà Mahàmoggallàna là vị cầm đầu, vào buổi sáng đắp y, cầm bát, đi đến
trú xứ của nữ cư sĩ, mẹ của Nanda, sau khi đến, ngồi xuống trên các
chỗ đã soạn sẵn. Rồi nữ cư sĩ, mẹ của Nanda, mời chúng Tỷ-kheo với
Sàriputta và Moggallàna là vị cầm đầu, với các món ăn thượng vị loại
cứng và loại mềm, và làm chúng Tỷ-kheo được thỏa mãn. Rồi nữ cư
sĩ, mẹ của Nanda thấy Tôn giả Sàriputta ăn đã xong, tay đã rút lui khỏi
bình bát, liền ngồi xuống một bên. Tôn giả Sàriputta nói với cư sĩ, mẹ
của Nanda đang ngồi một bên:
- Này Mẹ của Nanda, ai bảo cho Bà
biết chúng Tỷ-kheo sẽ đi tới nhà?
- Ở đây, thưa Tôn giả, con thức
dậy trước khi trời sáng, đọc lớn tiếng bài kệ Pàràyana rồi im lặng.
Rồi thưa Tôn giả, Đại vương Vessavana sau khi biết được con đã đọc
xong, liền hết sức hoan hỷ và nói:
- "Lành thay, này Chị! Lành
thay, này Chị!"
- "Ngài là ai, hởi vị có bộ
mặt hiền?"
- "Này Chị, ta là anh của Chị,
Đại vương Vessavana!"
- "Lành thay, hởi vị có bộ mặt
hiền! Hãy lấy pháp môn được tôi nói đến hôm qua, làm quà tặng đón
khách cho Ngài."
- "Lành thay, này Chị! Phải,
pháp môn này hãy là quà tặng đón khách của tôi! Ngày mai, chúng Tỷ-kheo,
với Sàriputta và Moggallàna là các vị cầm đầu, sẽ đến Velukantaka,
nhưng chưa ăn sáng. Sau khi Chị mời chúng Tỷ-kheo dùng xong, hãy tuyên bố
chính ta đã cúng dường."
Thưa Tôn giả, mong rằng mọi công
đức của buổi cúng dường này sẽ đem lại an lạc cho đại vương
Vessavana!
3. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda! Bà có thể nói chuyện, mặt tận mặt
với một Thiên tử có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy.
- Thưa Tôn giả, không phải chỉ
có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con. Con còn có một
sự kiện vi diệu, hy hữu khác! Ở đây, thưa Tôn giả, Nanda, đứa con độc
nhất của con, khả ái, khả ý, vì một lý do gì đó, bị các vua dùng sức
mạnh bắt giữ và đoạn mạng sống. Thưa Tôn giả, trong khi đứa trẻ bị
bắt giữ hay đang bị bắt giữ, khi bị trói hay đang bị trói, khi bị giết
hay đang bị giết, con rõ biết tâm của con không có đổi khác.
4. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda! Bà có thể cho tâm khởi thanh tịnh
như vậy.
- Thưa Tôn giả, không phải chỉ
có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con. Con còn có một
sự kiện vi diệu, hy hữu khác! Ở đây, thưa Tôn giả, người chồng của
con, khi mạng chung, sanh vào sanh loại Dạ-xoa, và vị ấy hiện lên trước
mặt con, với một tự ngã như lúc trước. Nhưng thưa Tôn giả, con rõ biết,
không vì nhân duyên ấy, tâm của con có đổi khác.
5. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda! Người có thể làm cho tâm khởi
thanh tịnh như vậy.
- Thưa Tôn giả, không phải chỉ
có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con. Con còn có một
sự kiện vi diệu, hy hữu khác. Thưa Tôn giả, khi còn là thiếu nữ, được
đưa đến cho chồng con, con rõ biết con không có một tâm vi phạm đối với
chồng con, huống nữa là về thân!
6. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda! Bà có thể cho tâm khởi thanh tịnh
như vậy.
- Thưa Tôn giả, không phải chỉ
có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con. Con còn có một
sự kiện vi diệu, hy hữu khác! Thưa Tôn giả, khi con tự chấp nhận là một
nữ cư sĩ, con rõ biết con chưa từng vi phạm một học pháp nào.
7. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda! Thưa Tôn giả, không phải chỉ có sự
vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con. Con còn có một sự
kiện vi diệu, hy hữu khác! Ở đây, thưa Tôn giả, nếu con muốn, con có
thể ly dục, ly pháp bất thiện , chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, không tầm không tứ; làm cho tịnh chỉ tầm
và tứ, con chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm; ly hỷ, con trú xả,
chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả
niệm lạc trú, con chứng đạt và an trú Thiền thứ ba; đoạn lạc và đoạn
khổ, chấm dứt các hỷ ưu đã cảm thọ trước, con chứng đạt và an
trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tĩnh.
8. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda!
- Thưa Tôn giả, không phải chỉ
có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con. Con còn có một
sự kiện vi diệu, hy hữu khác! Ở đây, thưa Tôn giả, năm hạ phần kiết
sử được Thế Tôn thuyết giảng, con thấy rõ không còn pháp nào ở nơi
con chưa được đoạn tận.
9. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda!
Rồi Tôn giả Sàriputta, sau khi với
một pháp thoại, nói lên cho nữ cư sĩ mẹ của Nanda, khích lệ làm cho phấn
khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi.
VI. PHẨM KHÔNG TUYÊN BỐ
(I) (51) KHÔNG TUYÊN BỐ
1. Bấy giờ một Tỷ-kheo đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, đối với Thánh đệ tử có nghe nhiều, nghi ngờ không khởi lên
đối với những vấn đề không được tuyên bố?
2. - Này Tỷ-kheo, do kiến diệt, với
vị Thánh đệ từ có nghe nhiều, nghi ngờ không khởi lên đối với những
vấn đề không được tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại",
này Tỷ-kheo, là một tà kiến. "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại",
này Tỷ-kheo, là một tà kiến. "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại và
không tồn tại", này Tỷ-kheo, là một tà kiến. "Sau khi chết, Như
Lai không có tồn tại và không không tồn tại", này Tỷ-kheo, là một
tà kiến. Này Tỷ-kheo, kẻ phàm phu không có nghe nhiều, không tuệ tri kiến,
không tuệ tri kiến tập khởi, không tuệ tri kiến đoạn diệt, không tuệ
tri con đường đưa đến kiến đoạn diệt; kiến ấy của người ấy
tăng trưởng. Người ấy không thoát khỏi khổ". Này Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử có nghe nhiều, tuệ tri kiến, tuệ tri kiến tập khởi, tuệ
tri kiến đoạn diệt, tuệ tri con đường đưa đến kiến đoạn diệt; kiến
của người ấy tiêu diệt. Người ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng: "Người ấy thoát khỏi khổ". Này
Tỷ-kheo, do biết vậy, do thấy vậy, vị Thánh đệ tử có nghe nhiều
không có tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại", không có
tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai không có tồn tại", không có
tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không tồn tại",
không có tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại và không
không tồn tại". Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử có nghe nhiều có một thái độ không tuyên bố đối với những vấn
đề không được tuyên bố. Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử không có sợ hãi, không có rung động, không có chấn động,
không rơi vào hoảng sợ đối với các vấn đề không được tuyên bố:
"Sau khi chết, Như Lai có tồn tại", này Tỷ-kheo, thuộc về khát
ái, thuộc về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp
thủ, thuộc về truy hối. "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại" ,
này Tỷ-kheo, thuộc về khát ái, thuộc về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc
về lý luận, thuộc về chấp thủ, thuộc về truy hối. "Sau khi chết,
Như Lai có tồn tại và không tồn tại" , này Tỷ-kheo, thuộc về khát
ái, thuộc về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp
thủ, thuộc về truy hối. "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại" , này Tỷ-kheo, thuộc về khát ái, thuộc về tưởng,
thuộc về tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp thủ, thuộc về
truy hối. Này Tỷ-kheo, kẻ phàm phu nghe ít, không tuệ tri truy hối, không
tuệ tri truy hối tập khởi, không tuệ tri truy hối đoạn diệt, không tuệ
tri con đường đưa đến truy hối đoạn diệt. Truy hối của người ấy
tăng trưởng. Người ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não. Ta nói rằng: "Người ấy không thoát khỏi khổ".
Này Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có nghe nhiều, tuệ tri truy hối, tuệ tri truy hối
tập khởi, tuệ tri truy hối đoạn diệt, tuệ tri con đường đi đến truy
hối đoạn diệt. Truy hối của vị ấy tiêu diệt. Vị ấy giải thoát khỏi
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng: "Người ấy thoát
khỏi khổ". Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, Thánh đệ tử
nghe nhiều, không tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại",
không tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại", không tuyên
bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không tồn tại", không
tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại".
Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, Thánh đệ tử không có sợ hãi,
không có rung động, không có chấn động, không rơi vào hoảng sợ đối với
các vấn đề không được tuyên bố. Này các Tỷ-kheo, đây là chơn, đây
là duyên, đối với Thánh đệ có nghe nhiều, nghi ngờ nhiều khởi lên đối
với những vấn đề không được tuyên bố.
(II) (52) SANH THÚ CỦA LOÀI NGƯỜI
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
về bảy sanh thú của loài Người, và không chấp thủ Niết-bàn. Hãy lắng
nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo. Thế nào là bảy
sanh thú của loài Người?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi thực hành như vậy suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta. Cái gì đó, cái gì được thành, ta đều từ bỏ".
Vị ấy có được xả. Vị ấy không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích
tụ của hữu; với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng
tịch tịnh. Vị ấy chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy.
Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa
đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận
trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử,
vị ấy chứng được Trung gian Niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một
cái bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một
miếng vụn có thể văng ra và trở thành nguội lạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ".
Vị ấy có được xả, vị ấy không tham đắm hữu, không tham đắm hậu
hữu; với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng tịch tịnh.
Và vị ấy chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy. Vị ấy
chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận
trọn vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn
hoàn toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy
chứng được Trung gian Niết-bàn.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong thực hành suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái này có thể
không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không phải của
ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ". Vị ấy có được
xả, vị ấy không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích tụ của hữu;
với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng tịch tịnh và
vị ấy chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy. Vị ấy chưa
đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn
vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn
toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy chứng
được Trung gian Niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái bát bằng sắt
được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một miếng vụn có thể
văng ra và trở thành nguội lạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái này
có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không
phải của ta...". Vị ấy đoạn diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị
ấy chứng được Trung gian Niết-bàn.
4. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy đoạn diệt tận năm hạ phần kiết sử,
vị ấy chứng được Trung gian Niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một
cái bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một
miếng vụn có thể văng ra và trở thành nguội lạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy, sau khi diệt tận năm hạ phần kiết sử,
vị ấy chứng được Trung gian Niết-bàn.
5. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận năm hạ phần kiết sử,
chứng được Tổn hại Bát-niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái
bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một miếng
vụn có thể văng ra và trở thành nguội lạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận năm hạ phần kiết sử,
chứng được Tổn hại Bát-niết-bàn.
6. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử,
chứng được Vô hành Niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái bát bằng
sắt được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một miếng vụn có
thể văng ra, có thể bay lên, có thể rơi xuống trên một đống cỏ nhỏ,
hay trên một đống củi nhỏ; miếng vụn ấy ở đấy sanh ra ngọn lửa,
sanh ra khói. Sau khi sanh ra ngọn lửa, sau khi sanh ra khói, nó đốt chát tiêu
hết đồng cỏ nhỏ ấy, hay đống củi nhỏ ấy, rồi trở thành nguội lạnh
vì không có nhiên liệu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi thực
hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái này có thể không phải
của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không phải của ta...".
Vị ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, chứng được Vô hành Niết-bàn.
7. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo khi thực hành như vậy, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này
không có, cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có,
cái này sẽ không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận năm hạ phần
kiết sử, chứng được Hữu hành Bát-niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo,
một cái bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được đập đánh,
một miếng vụn có thể văng ra, có thể bay lên, có thể rơi xuống trên một
đống cỏ nhỏ, hay trên một đống củi nhỏ; miếng vụn ấy ở đấy
sanh ra ngọn lửa, sanh ra khói. Sau khi sanh ra ngọn lửa, sau khi sanh ra khói,
nó đốt chát tiêu hết đồng cỏ nhỏ ấy, hay đống củi nhỏ ấy, rồi
trở thành nguội lạnh vì không có nhiên liệu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận năm hạ phần kiết sử,
chứng được Hữu hành Bát-niết-bàn.
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi thực hành như vậy suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ.".
Vị ấy có được xả, vị ấy không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích
tụ của hữu; với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng
tịch tịnh và vị ấy chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy.
Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa
đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận
trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử,
vị ấy chứng được Thượng lưu, đi đến Sắc cứu cánh. Ví như, này
các Tỷ-kheo, một cái bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được
đập đánh, một miếng vụn có thể văng ra, có thể bay lên, có thể rơi
xuống trên một đống cỏ, hay trên một đống củi to lớn; miếng vụn
ấy ở đấy sanh ra ngọn lửa, sanh ra khói. Sau khi sanh ra ngọn lửa, sau khi
sanh ra khói, nó đốt chát tiêu hết đồng cỏ, hay đống củi to lớn ấy,
thiêu cháy lùm cây, thiêu cháy rừng rậm. Sau khi thiêu cháy thảo nguyên,
sau khi thiêu cháy rừng rậm, nó cháy lan đến đám ruộng xanh hay đến đám
đất cao, hay đến hòn đá, hay đến dòng nước, hay đến đám đất khả
ái, hay đến một phần đất nào rồi trở thành nguội lạnh vì không có
nhiên liệu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ
như sau: "Nếu cái này không có, cái này có thể không phải của ta. Nếu
cái này sẽ không có, cái này sẽ không phải của ta...". Vị ấy, do
diệt tận năm hạ phần kiết sử, chứng được Thượng lưu Bát-niết-bàn,
đi đến Sắc cứu cánh.
Này các Tỷ-kheo, đây là bảy sanh
thú của loài Người. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Không chấp thủ
Bát-Niết-bàn?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
khi thực hành như vậy, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái
này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ.".
Vị ấy có được xả, vị ấy không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích
tụ của hữu; với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng
tịch tịnh và vị ấy chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy.
Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa
đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận
trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử,
vị ấy tự mình với thắng trí, ngay trong hiện tại, chứng nhập, chứng
đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là Không chấp thủ Bát-niết-bàn. Và này các Tỷ-kheo, đây là bảy
sanh thú của loài Người và Không chấp thủ Bát-niết-bàn.
(III) (53) TISSA
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Rajagaha
(Vương Xá), tại núi Gijjihakuta (Linh Thứu). Bấy giờ có hai Thiên nhân sau
khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng
Gijjihakuta, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng
một bên. Sau khi đứng một bên, một Thiên nhân bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni
này được giải thoát.
Thiên nhân khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni
này khéo giải thoát, không có dư y.
Các Thiên nhân ấy nói như vậy. Bậc
Đạo Sư chấp nhận. Rồi các Thiên nhân ấy, sau khi được biết: "Bậc
Đạo Sư đã chấp nhận", đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về
Ngài, rồi biến mất tại chỗ. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn, bảo
các Tỷ-kheo:
- Đêm này, này các Tỷ-kheo, có hai
Thiên nhân sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng
toàn vùng Gijjihakuta, đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một
bên. Sau khi đứng một bên, một Thiên nhân bạch với Ta: "Bạch Thế
Tôn, những Tỷ-kheo-ni này được giải thoát". Thiên nhân khác bạch với
Ta: "bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni này khéo giải thoát, không có dư
y". Này các Tỷ-kheo, các Thiên nhân ấy nói như vậy. Sau khi nói như vậy,
các Thiên nhân ấy đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng về Ta, rồi biến mất
tại chỗ.
2. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Mahàmoggallàna ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna
suy nghĩ như sau: "Những Thiên nhân nào có trí như sau: "Có dư y là
có dư y" hay "không có dư y là không có dư y"". Lúc bấy giờ,
Tỷ-kheo tên là Tissa mạng chung không bao lâu và được sanh lên một Phạm
thiên giới. Tại đấy, họ được biết vị ấy là Phạm thiên Tissa, có
đại thần lực, có đạt uy lực. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna, như người
lực sĩ duỗi cánh đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy,
biến mất ở Gijjihakuta và hiện ra ở Phạm thiên giới ấy. Phạm thiên
Tissa thấy Tôn giả Mahàmoggallàna từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với
Tôn giả Mahàmoggallàna:
- Hiền giả Moggallàna, hãy đến đây!
Thiện lai Hiền giả Moggallàna! Đã lâu, Hiền giả Moggallàna mới tạo cơ
hội này, tức là đến đây. Hãy ngồi, Hiền giả Moggallàna, đây là chỗ
ngồi đã soạn sẵn!
Tôn giả Mahàmoggallàna ngồi xuống
trên chỗ đã soạn sẵn. Phạm thiên Tissa đảnh lễ Tôn giả
Mahàmoggallàna rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Mahàmoggallàna nói với
Phạm thiên Tissa đang ngồi xuống một bên:
- Những Thiên nhân nào có trí như
sau: "Có dư y là có dư y" hay "không có dư y là không có dư
y". Thưa Hiền giả Moggallàna, Phạm chúng thiên có trí như sau: "Có
dư y là có dư y" hay "không có dư y là không có dư y".
- Này Tissa, có phải tất cả chư
Thiên ở Phạm chúng thiên đều có trí như vậy: "Có dư y là có dư
y" hay "không có dư y là không có dư y"?
3. - Thưa Hiền giả, không phải tất
cả chư thiên ở Phạm chúng thiên đều có trí như vậy: "Có dư y là
có dư y" hay "không có dư y là không có dư y". Thưa Hiền giả
Moggallàna, những Thiên nhân nào ở Phạm chúng thiên bằng lòng với tuổi
thọ Phạm thiên, bằng lòng với dung sắc Phạm thiên, với an lạc Phạm
thiên, với danh tiếng Phạm thiên, với uy quyền Phạm thiên, không như thật
rõ biết sự xuất ly cao hơn trạng thái ấy. Những vị ấy không có trí
như sau: "Có dư y là có dư y" hay "không có dư y là không có dư
y". Và thưa Hiền giả Moggallàna, những Thiên nhân nào ở Phạm chúng
thiên, không bằng lòng với tuổi thọ Phạm thiên, không bằng lòng với
dung sắc Phạm thiên, với an lạc Phạm thiên, với danh tiếng Phạm thiên,
với uy quyền Phạm thiên, như thật rõ biết sự xuất ly cao hơn trạng thái
ấy; những vị ấy có trí như sau: "Có dư y là có dư y" hay
"không có dư y là không có dư y".
4. Ở đây, thưa Hiền giả Moggallàna,
Tỷ-kheo được giải thoát cả hai phần. Chư Thiên ấy biết về vị ấy
như sau: "Tôn giả này được giải thoát cả hai phần". Khi thân
còn tồn tại, các Thiên nhân và loài Người không thấy được vị ấy.
Như vậy, thưa Hiền giả Moggallàna, các Thiên nhân ấy, có trí như sau:
"Không có dư y là không có dư y".
5. Nhưng ở đây, thưa Hiền giả
Moggallàna, Tỷ-kheo được tuệ giải thoát, chư Thiên ấy biết về vị ấy
như sau: "Tôn giả này được tuệ giải thoát". Khi thân còn tồn tại,
các Thiên nhân và loài Người thấy được vị ấy. Khi thân hoại, các
Thiên nhân và loài Người không thấy được vị ấy. Như vậy, thưa Hiền
giả Moggallàna, các Thiên nhân ấy có trí như sau: "Không có dư y là
không có dư y".
6. Nhưng ở đây, thưa Hiền giả
Moggallàna, Tỷ-kheo thân chứng, chư Thiên ấy biết về vị ấy như sau:
"Tôn giả này là vị thân chứng. Rất có thể Tôn giả này, do sử dụng
các sàng tọa thích đáng, do thân cận các thiện bằng hữu, do chế ngự
các căn, vị ấy có thể ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng
ngộ, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, mà các thiện
nam tử vì mục đích ấy chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình". Như vậy, thưa Hiền giả Moggallàna, các Thiên nhân ấy
có trí như sau: "Có dư y là có dư y".
7. Nhưng ở đây, thưa Hiền giả
Moggallàna, Tỷ-kheo kiến chí... tín giải thoát... tùy pháp hành. Chư Thiên
ấy biết về vị ấy như sau: "Tôn giả này là vị tùy pháp hành. Rất
có thể Tôn giả này, do sử dụng các sàng tọa thích đáng, do thân cận
các thiện bằng hữu, do chế ngự các căn, vị ấy có thể ngay trong hiện
tại tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô thượng
cứu cánh Phạm hạnh, mà các thiện nam tử vì mục đích ấy chơn chánh xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Như vậy, thưa Hiền giả
Moggallàna, các Thiên nhân ấy có trí như sau: "Hay trong các vị có dư
y, vị ấy là vị có dư y".
8. Rồi Tôn giả Moggallàna hoan hỷ
tín thọ lời nói của Phạm thiên Tissa. Như một người lực sĩ duỗi cánh
tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, Tôn giả biến
mất ở Phạm thiên giới, hiện ra ở núi Gijjihakùta. Rồi Tôn giả,
Mahàmoggallàna đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahàmoggallàna, đem câu chuyện
nói với Phạm thiên Tissa như thế nào, tường thuật hết tất cả cho Thế
Tôn nghe.
- Nhưng này Moggallàna, Phạm thiên
Tissa không nói cho Thầy về hạng người vô tướng trú thứ bảy.
- Bạch Thế Tôn, nay là thời, bạch
Thiện Thệ, nay là thời để Thế Tôn nói về người trú vô tướng thứ
bảy. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Này Moggallàna, hãy lắng nghe.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Mahàmoggallàna vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
9. - Ở đây, này Moggallàna, Tỷ-kheo
không tác ý tất cả tướng, chứng đạt vô tướng tâm định và an trú.
Các Thiên nhân ấy biết về vị ấy như sau: "Tôn giả này, do không
tác ý tất cả tướng, chứng đạt và an trú vô tướng tâm định. Rất có
thể Tôn giả này do sử dụng các sàng tọa thích đáng, do thân cận các
thiện bằng hữu, do chế ngự các căn, vị ấy có thể ngay trong hiện tại
tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô thượng cứu
cánh Phạm hạnh mà các thiện nam tử vì mục đích ấy chơn chánh xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Như vậy, này Moggallàna,
các Thiên nhân ấy có trí ấy như sau: "Có dư y là có dư y".
(IV) (54) SÌHA
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Vesali, tại
Đại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi tướng quân Sìha đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, tướng quân Sìha bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể
nêu rõ kết quả hiện tại của sự bố thí?
2. - Này Sìha, ở đây Ta sẽ hỏi
Ông. Ông kham nhẫn như thế nào, hãy trả lời như vậy. Ông nghĩ thế nào,
này Sìha, ở đây có hai người: một người không có lòng tin, xan tham, keo
kiệt, ác khẩu; một người có lòng tin là người thí chủ, ưa thích
không chấp thủ, nghĩ thế nào, này Sìha, các vị A-la-hán có lòng từ mẫn,
sẽ có lòng từ mẫn với ai trước, với người không có lòng tin, xan
tham, keo kiệt, ác khẩu hay với người có lòng tin, là người chí thủ,
không có chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người không
có lòng tin, xan tham, keo kiệt, ác khẩu, làm sao các vị A-la-hán có lòng từ
mẫn, sẽ có lòng từ mẫn với hạng người này trước được? Và bạch
Thế Tôn, người nào có lòng tin, là người thí chủ, không có chấp thủ,
các vị A-la-hán có lòng từ mẫn, sẽ có lòng từ mẫn với hạng người
này trước.
3. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha,
các vị A-la-hán đi đến thăm, có thể đến thăm ai trước, hạng người
không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu, hay hạng người có lòng tin,
là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người không
có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu, làm sao các vị A-la-hán đi đến
thăm, có thể đến thăm trước được? Và bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, là người thí chủ, không có chấp thủ, các vị A-la-hán đi đến
thăm sẽ đi đến hạng người này trước.
4. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha,
các vị A-la-hán thọ lãnh đồ ăn khất thực, có thể thọ lãnh của ai trước,
hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu hay hạng người
có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu làm sao các vị A-la-hán thọ lãnh, có
thể thọ lãnh của hạng người ấy trước được? Và bạch Thế Tôn, hạng
người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ, các vị
A-la-hán có thể thọ lãnh của hạng người này trước.
5. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha,
các vị A-la-hán thuyết pháp cho ai trước, hạng người không có lòng tin,
xan tham, keo kiết, ác khẩu hay hạng người có lòng tin, là người thí chủ,
ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu làm sao các vị A-la-hán thuyết pháp sẽ
thuyết pháp cho hạng người ấy trước được? Và bạch Thế Tôn, hạng
người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ, các vị
A-la-hán thuyết pháp có thể thuyết pháp cho hạng người này trước.
6. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha,
danh tiếng tốt đẹp của ai được truyền rộng ra, hạng người không có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu hay hạng người có lòng tin, là người
thí chủ, ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu làm sao danh tiếng tốt đẹp của hạng
người ấy được truyền rộng ra? Bạch Thế Tôn, hạng người có lòng
tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ, danh tiếng tốt đẹp của
hạng người này có thể được truyền rộng ra.
7. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha, ai
đi đến bất cứ hội chúng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội
chúng Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn, đi đến
không sợ hãi, không rụt rè, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết,
ác khẩu hay hạng người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không
chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu làm sao hạng người ấy đi đến bất
cứ hội chúng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội chúng
Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn, đi đến không
sợ hãi, không rụt rè được? Bạch Thế Tôn, hạng người có lòng tin,
là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ, hạng người ấy đi đến bất
cứ hội chúng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội chúng
Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn, đi đến không
sợ hãi, không rụt rè.
8. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha,
sau khi thân hoại mạng chung, ai có thể sanh lên thiện thú, thiên giới,
cõi đời này, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu
hay hạng người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu làm sao hạng người ấy, sau khi thân
hoại mạng chung, ai có thể sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này?
Bạch Thế Tôn, hạng người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích
không chấp thủ, hạng người này, sau khi thân hoại mạng chung, ai có thể
sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này
9. Bạch Thế Tôn, sáu kết quả hiện
tại của bố thí này được Thế Tôn tuyên bố không phải vì họ, con đi
đến lòng tin đối với Thế Tôn. Con biết họ. Bạch Thế Tôn, con là người
bố thí, là người thí chủ. Các vị A-la-hán có lòng từ mẫn, có lòng từ
mẫn với con trước. Bạch Thế Tôn, con là người bố thí, là người thí
chủ. Các vị A-la-hán có đi đến thăm, đi đến thăm con trước. Bạch Thế
Tôn, con là người bố thí, là người thí chủ. Các vị A-la-hán có nhận
lãnh đồ ăn khất thực, nhận lãnh của con trước. Bạch Thế Tôn, con là
người bố thí, là người thí chủ. Các vị A-la-hán có thuyết pháp, thuyết
pháp cho con trước. . Bạch Thế Tôn, con là người bố thí, là người thí
chủ, tiếng đồn tốt đẹp về con được truyền rộng ra: "Tướng quân
Sìha là người bố thí, là người hành động, là người ủng hộ chúng Tăng".
Bạch Thế Tôn, con là người bố thí, là người thí chủ; con đi đến hội
chứng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội chúng Bà-la-môn, hoặc hội
chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn, đi đến không sợ hãi, không rụt
rè. Bạch Thế Tôn, sáu kết quả hiện tại của bố thí này được Thế
Tôn tuyên bố, không phải vì họ, con đi đến lòng tin đối với Thế Tôn.
Con biết họ. Nhưng bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã nói về con như sau: "Sìha
là người bố thí, là thí chủ, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên
thiện thú, thiên giới, cõi đời này". Con không biết vấn đề này,
ở đây, con đi đến lòng tin nơi Thế Tôn.
- Như vậy là phải, này Sìha! Như
vậy là phải, này Sìha! Sìha là người bố thí, là người thí chủ, sau
khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời
này.
(V) (55) KHÔNG CÓ CHE ĐẬY
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn điều
Như Lai không phải che đậy, và đối với ba điều, Ngài không có phạm lỗi.
Thế nào là bốn điều Như Lai không phải che đậy?
2. Này các Tỷ-kheo, thân hành của
Như Lai là thanh tịnh. Như Lai không có thân ác hành, khiến Như Lai phải
che đậy: "Đừng để cho người khác biết việc này của Ta!".
Này các Tỷ-kheo, khẩu hành của Như Lai là thanh tịnh. Như Lai không có khẩu
ác hành, khiến Như Lai phải che đậy: "Đừng để cho người khác biết
việc này của Ta!". Này các Tỷ-kheo, ý hành của Như Lai là thanh tịnh.
Như Lai không có ý ác hành, khiến Như Lai phải che đậy: "Đừng để
cho người khác biết việc này của Ta!". Này các Tỷ-kheo mạng sống của
Như Lai là thanh tịnh. Như Lai không có tà mạng, khiến Như Lai phải che đậy:
"Đừng để cho người khác biết việc này của Ta!".
Bốn điều này, Như Lai không phải
che đậy. Thế nào là ba điều Như Lai không có phạm lỗi?
3. Này các Tỷ-kheo, pháp được
Như Lai khéo thuyết. Ở đây, chắc chắn không có một ai, hoặc Sa-môn, hay
Bà-la-môn, hay Thiên nhân, hay Ác ma, hay Phạm thiên, hay một ai ở đời sẽ
có thể buộc tội một cách đúng pháp: "Ở đây, pháp không được Ngài
khéo thuyết". Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy có tướng này. Này các Tỷ-kheo,
do không thấy có tướng này, Ta an trú, đạt được an ổn, đạt được
không sợ hãi, đạt được không hoảng sợ. Này các Tỷ-kheo, con đường
đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử được Ta làm cho khéo rõ biết. Nhờ
thực hành con đường như vậy, các đệ tử của Ta do diệt tận các lậu
hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình chứng ngộ thắng trí, chứng đạt và
an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ở đây chắc chắn không
có một ai, hoặc Sa-môn, hay Bà-la-môn, hay Thiên nhân, hay Ác ma, hay Phạm
thiên, hay một ai ở đời sẽ có thể buộc tội một cách đúng pháp:
"Ở đây, con đường đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử không được
Ngài làm cho khéo rõ biết. Nhờ thực hành con đường như vậy, các đệ tử
của Ngài do diệt tận các lậu hoặc..., ... và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát". Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy có tướng này.
Này các Tỷ-kheo, do không thấy có tướng này, Ta an trú, đạt được an
ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được không hoảng sợ. Này các Tỷ-kheo,
có đến hàng trăm hội chúng đệ tử của Ta do diệt tận các lậu hoặc,
... chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát. Ở đây chắc chắn không có một ai, hoặc Sa-môn, hay Bà-la-môn, hay
Thiên nhân, hay Ác ma, hay Phạm thiên, hay một ai ở đời sẽ có thể buộc
tội một cách đúng pháp: "Như vậy, Ngài không có hàng trăm hội chúng
đệ tử, do diệt tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình chứng
ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát.". Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy có tướng này. Này các Tỷ-kheo,
do không thấy có tướng này, Ta an trú, đạt được an ổn, đạt được
không sợ hãi, đạt được không hoảng sợ. Đối với ba điều này, Ta
không có phạm lỗi.
Này các Tỷ-kheo, có bốn điều này,
Như Lai không phải che đậy, và đối với ba điều này, Ngài không có phạm
lỗi.
(VI) 956) KIMBILA
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Kimbila,
tại rừng Trúc. Rồi Tôn giả Kimbila đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Kimbila bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp không được tồn tại lâu
dài?
- Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập
diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống không cung kính,
không tùy thuận bậc Đạo Sư; sống không cung kính, không tùy thuận Pháp;
sống không cung kính, không tùy thuận chúng Tăng; sống không cung kính,
không tùy thuận học pháp, sống không cung kính, không tùy thuận Thiền định;
sống không cung kính, không tùy thuận không phóng dậﴻ sống không cung
kính, không tùy thuận nghinh đón. Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên,
khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp không được tồn tại lâu dài.
2. - Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu dài?
- Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập
diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống cung kính, tùy
thuận bậc Đạo Sư, sống cung kính tùy thuận Pháp; sống cung kính tùy thuận
học pháp; sống cung kính tùy thuận Thiền định; sống cung kính tùy thuận
không phóng dật; sống cung kính tùy thuận nghinh đón. Này Kimbila, đây là
nhân, đây là duyên, khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu
dài.
(VII) (57) BẢY PHÁP
1. - Này các Tỷ-kheo, thành tựu bảy
pháp, Tỷ-kheo không bao lâu diệt tận các lậu hoặc... chứng ngộ, chứng
đạt và an trú. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có lòng tin, có giữ giới, có nghe nhiều, sống Thiền tịnh, tinh cần tinh
tấn, có chánh niệm, có trí tuệ.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không bao lâu, do diệt tận các lậu hoặc chứng ngộ, chứng đạt
và an trú.
(VIII) (58) NGỦ NGỤC
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở giữa
dân chúng Bhagga, tại núi Sumsumàra, tại vườn Nai. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Mahàmoggallàna đang ngồi ngủ gục, trong làng Kallavàlamutta, giữa dân chúng
Magadha. Thế Tôn với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy Tôn giả
Mahàmoggallàna đang ngồi ngủ gục, trong làng Kallavàlamutta, giữa dân chúng
Magadha. Thấy vậy, như nhà lực sĩ duỗi bàn tay đang co lại, hay co lại bàn
tay đang duỗi ra; cũng vậy, Thế Tôn biến mất giữa dân chúng Bhagga, tại
núi Sumsumàra, rừng Bhesakalà, ở vườn Nai, rồi hiện ra trước mặt Tôn
giả Mahàmoggallàna, tại làng Kallavàlamutta, giữa dân chúng Magadha. Thế
Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn; sau khi ngồi, Thế Tôn nói với
Tôn giả Mahàmoggallàna.
- Này Moggallàna, có phải Thầy ngủ
gục? Này Moggallàna, có phải Thầy ngủ gục?
- Thưa phải, bạch Thế Tôn.
2. - Do vậy, này Moggallàna, khi nào
Thầy trú có tưởng và thụy miên xâm nhập Thầy, chớ có tác ý đến nó,
chớ có tưởng nhiều đến nó. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như
vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
3. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna, với tâm của Thầy,
hãy tùy tâm, tùy tứ, với ý hãy tùy quán pháp như đã được nghe, như đã
được học thuộc lòng. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy
miên ấy được đoạn diệt.
4. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy đọc tụng
pháp một cách rộng rãi, như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng.
Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy miên ấy được đoạn
diệt.
5. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy kéo hai lỗ
tai của Thầy, và lấy tay xoa bóp tay chân. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy
trú như vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
6. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy từ chỗ
ngồi, đứng dậy lấy nước chùi mắt, nhìn về phía chân trời và nhìn
lên các sao lấp lánh. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy
miên ấy được đoạn diệt.
7. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy tác ý đến
quang tưởng và an trú vào tưởng ban ngày. Như ban ngày, ban đêm cũng vậy.
Như ban đêm, ban ngày cũng vậy. Như vậy, với tâm rộng mở, không có hạn
chế. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy miên ấy được
đoạn diệt.
8. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy trú tâm
trên chỗ kinh thành, với tưởng trước mặt và sau lưng, với căn hướng
nội, với ý không hướng ngoại. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như
vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
9. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy nằm như
dáng nằm con sư tử, về phía hông bên phải, hai chân gác lên nhau, chánh
niệm tỉnh giác, tác ý với tưởng thức dậy. Và khi thức dậy, này
Moggallàna, Thầy hãy thức dậy thật mau, nghĩ rằng: "Ta sẽ trú, không
có chú tâm đến lạc nằm ngủ, lạc nằm xuống một bên, lạc thụy
miên". Như vậy, này Moggallàna, Thầy cần phải học tập.
10. Do vậy, này Moggallàna, hãy học
tập như sau: "Không say sưa trong cao mạn, ta sẽ đi đến thăm các gia
đình". Này Moggallàna, như vậy các Thầy sẽ học tập. Này Moggallàna,
nếu Tỷ-kheo say sưa trong cao mạn đi đến thăm các gia đình. Trong các gia
đình, này Moggallàna, người ta có nhiều công việc phải làm. Do vậy, người
ta không có tác ý đến Tỷ-kheo đã đi đến. Ở đây, Tỷ-kheo ấy có thể
suy nghĩ: "Nay, ai đã chia rẽ ta với gia đình này. Các người này
không ưa thích gì ta". Như vậy, do không được gì, vị ấy nản chí,
vị ấy giao động; do giao động, vị ấy không phòng hộ, do không phòng hộ,
tâm rời xa Thiền định. Do vậy, này Moggallàna, hãy học tập như sau:
"Ta sẽ không nói lời khiêu khích". Như vậy, này Moggallàna, Thầy
cần phải học tập. Khi nào có lời khiêu khích, này Moggallàna, thời chờ
đợi là nhiều lời qua tiếng lại, khi nào có nhiều lời qua tiếng lại,
thời có dao động. Với người có dao động, thời không có phòng hộ. Với
người không có phòng hộ, tâm rời xa Thiền định. Này Moggallàna, Ta
không tán thán tất cả sự liên hệ, nhưng không phải Ta không tán thán tất
cả sự liên hệ. Thật vậy, này Moggallàna, Ta không tán thán các vị xuất
gia có sự liên hệ, với các gia chủ. Nhưng với các trú xứ ít tiếng ồn,
ít tiếng động, thoát khỏi hơi thở của nhiều người, những chỗ ở cô
độc xa vắng loài Người, thích hợp cho đời sống Thiền tịnh, Ta tán
thán sự liên hệ với những trú xứ như vậy.
11. Được nghe nói như vậy, Tôn giả
Mahàmoggallàna bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, cho đến như thế
nào, tóm tắt lại, một Tỷ-kheo được giải thoát nhờ sự đoạn diệt
khát ái, đạt đến cứu cánh mục đích, đạt đến cứu cánh an ổn khỏi
ách nạn, đạt đến cứu cánh Phạm hạnh, đạt đến cứu cánh của cứu
cánh, trở thành tối thượng giữa chư Thiên và loài Người?
- Này Moggallàna, ở đây, Tỷ-kheo
được nghe như sau: "Không nên thiên chấp tất cả pháp". Này
Moggallàna, và Tỷ-kheo được nghe như sau: "Không nên thiên chấp tất cả
pháp". Vị ấy thắng tri tất cả pháp; do thắng tri tất cả pháp, vị
ấy liễu tri tất cả pháp. Do liễu tri tất cả pháp, phàm có cảm thọ
gì được cảm giác, lạc, khổ hay không khổ, không lạc, vị ấy trú tùy
quán vô thường đối với các cảm thọ ấy. Vị ấy trú tùy quán ly tham.
Vị ấy trú tùy quán đoạn diệt. Vị ấy trú tùy quán từ bỏ. Do vị ấy
trú tùy quán vô thường trong các cảm thọ, do vị ấy trú tùy quán ly
tham, do vị ấy tùy quán đoạn diệt. Vị ấy trú tùy quán từ bỏ, nên
không chấp thủ một cái gì ở đời; do không chấp thủ nên không lo âu;
do không tham đắm nên tự mình nhập Niết-bàn. Vị ấy biết rõ: "Sanh
đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui
trong trạng thái này nữa". Này Moggallàna, cho đến như vậy, tóm tắt
lại, một Tỷ-kheo được giải thoát nhờ sự đoạn diệt khát ái, đạt
đến mục đích cứu cánh, đạt đến cứu cánh an ổn khỏi các ách nạn,
đạt đến cứu cánh Phạm hạnh, đạt đến cứu cánh của cứu cánh, trở
thành tối thượng giữa chư Thiên và loài Người.
Này các Tỷ-kheo, chớ có sợ hãi
các công đức. Này các Tỷ-kheo, đồng nghĩa với an lạc chính là các
công đức . Ta thắng tri rằng, này các Tỷ-kheo, các công đức được làm
lâu ngày có quả dị thúc, có sự hình thành khả ái, khả hỷ, khả ý
lâu ngày. Trong bảy năm Ta tu tập từ tâm, sau khi tu tập từ tâm bảy năm,
trong bảy thành kiếp hoại kiếp, Ta không trở lui lại thế giới này. Khi
thế giới ở trong thành kiếp, này các Tỷ-kheo, Ta đi đến thế giới
Quang A⭠thiên. Khi thế giới ở trong kiếp đấy, này các Tỷ-kheo, Ta là Phạm
thiên, là Đại phạm thiên, vị Chiến thắng, vị Vô năng thắng, vị Biến
tri, vị Tự tại. Ba mươi sáu lần, này các Tỷ-kheo, Ta là Thiên chủ
Sakka. Nhiều lần bảy lần, Ta là vị Chuyển luân vương theo Chánh pháp,
là vị Pháp vương, bậc Chiến thắng bốn phương, đạt được sự thanh bình
cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Này các Tỷ-kheo, Ta có bảy loại
châu báu này, như là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, gia chủ
báu và cư sĩ báu là thứ bảy. Ta có hơn một ngàn người con trai, này
các Tỷ-kheo, là những bậc anh hùng, dõng mãnh, đánh tan địch quân. Và
khi ta chiến thắng quả đất này, xa cho đến bờ biển, Ta trị vì quả đất
này không dùng trượng, không dùng đao, đúng với Chánh pháp.
Hãy xem quả dị thục,
Của các việc công đức,
Của các việc hiền thiện,
Với kẻ tìm an lạc.
Này Tỷ-kheo, Ta tu,
Từ tâm trong bảy năm,
Trong bảy thành hoại kiếp,
Không trở lại thành kiếp,
Ta đạt Quang A⭠thiên,
Khi thế giới hoại kiếp
Sanh Phạm cung trống rỗng.
Bảy lần, Ta đóng vai,
Đại Phạm thiên, Tự tại,
Trong ba mươi sáu lần,
Làm Thiên chủ Thiên giới.
Ta làm vua Chuyển luân,
Chủ tể cõi Diêm-phù.
Bậc Sát-ly quán đảnh,
Bậc chủ tể loài Người,
Ta chiến thắng đất này,
Không với trượng, với kiếm,
Không bạo lực, đúng pháp,
Đối mọi người bình đẳng,
Ta trị vì đúng pháp,
Trên cõi đất tròn này.
Ta khiến các gia đình,
Giàu lớn, tài sản lớn,
Họ hưởng mọi dục lạc,
Ta đầy đủ bảy báu,
Chư Phật thương tưởng đời,
Khéo dạy điều như vậy.
Đấy là nhân đại sự,
Được gọi là Địa vương.
Ta là vua, huy hoàng,
Bảo vệ nhiều tài sản,
Có thần lực, danh xưng,
Vương chủ rừng Diêm-phù,
Ai nghe, không tịnh tín?
Trừ các loại ác sanh,
Do vậy muốn lợi ích,
Cầu vọng sự lớn mạnh,
Hãy kính trọng diệu pháp,
Hãy nhớ lời Phật dạy.
(IX) (59) CÁC NGƯỜI VỢ
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Thế Tôn đắp y,
vào buổi sáng, cầm y bát, đi đến trú xử của Anàthapindika; sau khi đến,
ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Lúc bấy giờ, trong trú xứ của gia
chủ Anàthapindika có nhiều người nói cao tiếng, nói lớn tiếng. Rồi
Anàthapindika đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
một bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anàthapindika đang ngồi xuống một bên:
- Này Gia chủ, vì sao trong nhà của
Ông lại có nhiều người nói cao tiếng, nói lớn tiếng như những người
đánh cá đang giành giựt cá?
- Bạch Thế Tôn, có nàng dâu
Sujàtà giàu có đến đây từ một gia đình giàu có. Nàng không vâng lời
mẹ chồng, không vâng lời cha chồng, không vâng lời chồng, cũng không
cung kính, không tôn trọng, không lễ bái, không cúng dường Thế Tôn.
2. Rồi Thế Tôn cho gọi nàng dâu
Sujàtà:
- Hãy đến đây Sujàtà!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Nàng dâu Sujàtà vâng đáp Thế
Tôn, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống
một bên. Thế Tôn nói với nàng dâu Sujàtà đang ngồi một bên:
- Này Sujàtà có bảy loại vợ này
cho người đàn ông. Thế nào là bảy? Vợ như người sát nhân, vợ như
người ăn trộm, vợ như người chủ nhân, vợ như người mẹ, vợ như
người chị, vợ như người bạn, vợ như người nữ tỳ. Này Sujàtà, có
bảy loại vợ cho người đàn ông. Và con thuộc loại vợ nào?
- Bạch Thế Tôn, lời dạy tóm tắt
này của Thế Tôn, con không hiểu rõ ý nghĩa một cách rộng rãi. Lành
thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp cho con để
con có thể hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi lời dạy tóm tắt này của
Thế Tôn.
- Vậy này Sujàtà, hãy nghe và suy
nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng Sujàtà vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
Ai tâm bị uế nhiễm,
Không từ mẫn thương người,
Thích thú những người khác,
Khinh rẻ người chồng mình,
Bị mua chuộc bằng tiền,
Hăng say giết hại người,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ sát nhân.
Còn hạng nữ nhân nào,
Tiêu xài tài sản chồng,
Do công nghiệp đem lại,
Hay thương nghiệp, nông nghiệp,
Do vậy, nếu muốn trộm,
Dầu có ít đi nữa,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ ăn trộm.
Không ưa thích làm việc,
Biếng nhác, nhưng ăn nhiều,
Ác khẩu và bạo ác,
Phát ngôn lời khó chịu,
Mọi cố gắng của chồng,
Đàn áp và chỉ huy,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi là vợ chủ nhân.
Ai luôn luôn từ mẫn,
Có lòng thương xót người,
Săn sóc giúp đỡ chồng,
Như mẹ chăm sóc con,
Tài sản hồng cất chứa,
Biết hộ trì gìn giữ,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ như mẹ,
Ai như người em gái,
Đối xử với chị lớn,
Biết cung kính tôn trọng,
Đối với người chồng mình,
Với tâm biết tàm quí,
Tùy thuận phục vụ chồng,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ như chị.
Ai ở đời thấy chồng,
Tâm hoan hỷ vui vẻ,
Như người bạn tốt lành,
Đã lâu ta xa về,
Sanh gia đình hiền đức,
Giữ giới, dạ trung thành,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ như bạn.
Không tức giận, an tịnh,
Không sợ hình phạt, trượng,
Tâm tư không hiềm hận,
Nhẫn nhục đối với chồng,
Không phẫn nộ tức giận,
Tùy thuận lời chồng dạy,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ nữ tỳ.
Ở đời các hạng vợ,
Được gọi vợ sát nhân,
Kể cả vợ ăn trộm,
Và cả vợ chủ nhân,
Vợ ấy không giữ giới,
Ác khẩu và vô lễ
Khi thân hoại mạng chung,
Bị sanh vào địa ngục.
Ở đời các hạng vợ,
Như mẹ, chị và bạn,
Và người vợ được gọi,
Là vợ như nữ tỳ,
An trú trên giới đức,
Khéo phòng hộ lâu ngày,
Khi thân hoại mạng chung,
Được sanh lên thiện thú.
Này Sujàtà, có bảy loại vợ này
đối với người đàn ông. Con thuộc hạng người nào?
- Bạch Thế Tôn, bắt đầu từ hôm
nay, Thế Tôn hãy xem con là người vợ đối với chồng như người vợ nữ
tỳ.